Monday, August 11, 2014

Tuyển tập nhạc nền Dota

Tuyển tập nhạc nền Dota


Đây là list tổng hợp các bài hát trong Dota. Mỗi bài nhạc tạo cho bạn một cảm giác riêng khi chơi với tuỳ trận đấu, hero bạn sử dụng. Hãy tưởng tượng đi push với nhạc nền là những bản hùng ca... vâng trong lòng bạn sẽ có nỗi niềm nào đó như chực trào dâng bởi sức ép nghẹt thở của đỉnh vinh quang, hay đang farm rừng mà nghe đoan nhạc kinh dị... bạn sẽ thấy tâm trạng đầy lo lắng có thể bị gank chết mất xác bất kỳ lúc nào...

Friday, August 8, 2014

Early, mid , late game

Early, mid , late game

Mid và late game là thời điểm thường xuyên xảy ra combat
Một game đấu dota thường được diễn ra trong khoảng 20-60'. Nó được chia vào 3 thời điểm là Early, Mid và Late. Mỗi thời điểm có những diễn biến khác nhau do đó cần phải có chiến thuật hợp lý cho từng thời điểm. Sau đây là đặc điểm cơ bản của từng thời điểm:

Early game:

  • Diễn ra trong khoảng 10 phút đầu của trận đấu (nhìn đồng hồ ở giữa phía trên màn hình). 
  • Các hero đang tập trung farm để mua được những item cơ bản (Boot, Bottle, Magic Stick...) chuẩn bị cho các đợt gank 
  • Cuối early game là lúc hero có ulti (chiêu level 6) và đây là thời điểm combat dữ dội nhất. 
  • Ở một số game trình độ cao thì việc đi gank luôn từ level 1 xảy ra khá thường xuyên với các hero roaming (đảo qua các lane liên tục ngay từ đầu game) ví dụ như Vengeful Spirit, Skeleton King, Venom... 
  • Với các hero late (mạnh về late khi có đồ) thì Early lại là thời điểm cần sớm farm đủ đồ để có thể dễ dàng hơn cho một MidLate game. Ví dụ Sniper hay Traxex thường được lên sớm Shadow Blade trong pub game để dùng skill tàng hình chạy trốn, Void lên Mask Of Madness có thể farm dễ dàng trong rừng tránh sự chú ý của kẻ địch.

Mid game :

  • Trong khoảng phút 11 đến phút 30 của trận đấu. 
  • Cuối Early và đầu Mid Game là thời điểm gank rất ác liệt vì các hero còn máu giấy (máu ít) nên các ganker có thể phát huy skill của mình hiệu quả tốt hơn. 
  • Late hero sẽ phải rất cẩn thận trong thời điểm này, tính toán lúc farm lane lúc farm rừng có thể giúp khả năng sống sót cao hơn. 
  • Các đợt gank bớt dần vào cuối Mid Game, bắt đầu thấy sự xuất hiện của các late hero với tương đối đồ đủ để tạo áp lực lớn lên kẻ địch. 
  • Các pha tổng tấn công hay phòng thủ nhà cũng diễn ra nhiều hơn. 

Late game :

  • Từ phút 31 trở đi. 
  • Thay vì các pha gank đơn lẻ mà giờ có nhiều team combat xảy ra hơn (nhiều hero cùng đấu nhau). 
  • Giờ là lúc các late hero tỏa sáng, vừa phải farm, vừa phải tổng tấn công, phòng thủ hay gank cùng đồng đội. Đòi hỏi họ phải rất kinh nghiệm trong việc nhận xét tình hình trận đấu

Friday, August 1, 2014

Bản đồ trong Dota

Bản đồ trong Dota

Dota 1:

  • Map chia 2 lãnh thổ, phía dưới bên trái là Sentinel, phía trên bên phải là Scourge, mỗi bên 5 hero. 
  • Đường kẻ màu đỏ trong hình là 3 lane (đường đi chính) gồm có lane bot (dưới), lane mid (giữa), lane top (trên). Giữa các lane là rừng, có lối đi tắt để thông qua các lane khác. Cũng từ đây trò vui bắt đầu, các tướng đảo lane luồn lách để tạo sự bất ngờ và xử nhau, cái này gọi là gank. 
  • Hình vuông màu xám là 3 tower (tháp canh) ở mỗi lane, và chỉ có thể phá lần lượt từ ngoài vào trong. Mỗi lần phá Tower cả team sẽ được khoảng hơn 200 gold (hero last hit được khoảng 400-500 gold).
  • Phá hết 3 tower ngoài sẽ phá tới nhà (hình tròn màu lam).
  • Trong cùng là 2 tower cuối (hình vuông màu đen), phá xong tower là throne (chữ T màu đỏ), phá xong là chiến thắng. 
  • Nơi hero xuất hiện có foutain đứng cạnh sẽ tự động hồi máu và mana. Cạnh đó là shop, ngoài ra còn một số shop bí mật bán các đồ đặc biệt ở các vị trí khác trên map (hình tam giác màu tím)
  • Chữ RS trên map là nơi xuất hiện của Rosan. 10 phút kể từ lần cuối chết Rosan sẽ xuất hiện lại, giết chết Rosan sẽ nhặt được đồ hồi sinh Aegis (còn gọi tắt là đồ RS) giúp hero hồi sinh ngay tại điểm chết vài giây sau. Đồ RS này cầm lên thì không vứt đi được ngoại trừ lúc chết nó tự mất đi. Lần thứ 3 khi Rosan chết sẽ rơi thêm Cheese, khi dùng sẽ lập tức hồi 2500 HP và 1000 MP.
  • Ngoài ra trong rừng có các mỏ neutral thường gọi là creep rừng (ô vuông màu vàng).
  • Hình tam giác tím là địa điểm các shop bí mật (secret shop)

Dota 2:


Bản đồ trong Dota 2 cũng tương tự Dota 1, nhưng phần lãnh thổ bên phía bên trái được gọi là Radiant, phía bên phải gọi là Dire
Lane Bot được xem là lane dễ cho bên phía Radiant (Sentinel) và là lane khó cho phía Dire (Scourge) và điều ngược lại xảy ra ở trên lane top. Ở những lane dễ thường sẽ được ưu tiên cho các hero đảm nhận vị trí carry, hero chính của team. Trong competitive, các team thường đi lane dễ với 3 hero trong đó có 2 hero support để bảo kê cho carry chính. Ở lane khó sẽ là lane của hero solo offlane. Nhưng tùy vào chiến thuật từng trận đấu mà có nhiều cách chia lane khác nhau. Còn trong đấu public thông thường thì sẽ chia theo 2:1:2 tức là có 1 hero solo mid còn 4 hero còn lại sẽ chia đều cho 2 lane bot và top.

Saturday, June 21, 2014

Mogul Khan the Axe

Mogul Khan the Axe

"No business but war. No family but death. No mercy but the grave!"
“Sự nghiệp duy nhất là chinh chiến. Gia đình duy nhất là tử vong. Ân huệ duy nhất là nấm mộ!”


Ngay từ khi còn là một gã bộ binh trong quân đoàn Red Mist, Mogul Khan đã xác định mục tiêu của mình là trở thành tướng quân của quân đoàn này. Trải qua không biết bao nhiêu trận chiến, hắn đã dùng những chiến thắng đẫm máu để khẳng định giá trị và địa vị của mình. 


Mogul Khan liên tục thăng tiến, nhờ vào hành vi sát hại thượng cấp của mình một cách không ngần ngại. Trải qua 7 năm của chiến dịch Thousand Tarns (Campaign of the Thousand Tarns), hắn vinh danh tên mình bằng những cuộc tàn sát đẫm máu, khiến danh vọng của hắn trở nên sáng chói hơn bao giờ hết. Thế nhưng, cùng lúc đó, đồng đội của hắn cũng đang ngày một ít dần.

Vào cái đêm chiến thắng cuối cùng, Mogul Khan tuyên bố hắn chính là vị tướng quân mới của quân đoàn Red Mist, cũng tự phong cho mình danh hiệu “Axe”. Thế nhưng, quân đội của hắn đã chỉ còn mình hắn, rất nhiều người đã tử vong trong chiến trận, nhưng càng nhiều người khác lại đã chết dưới chính lưỡi búa của Axe.

Một điều hiển nhiên rằng, hiện tại, hầu hết các chiến sĩ đều lảng tránh sự lãnh đạo của Axe. Nhưng đối với hắn mà nói, điều đó chẳng hề có nghĩa lí gì hết. Bởi lẽ, với Axe, quân đoàn một người mới là quân đoàn mạnh nhất.


 Axe, Disruptor cùng Warlock đều thuộc về một dân tộc, được gọi là Oglodi. Các bạn có thể tìm hiểu thêm về 2 Hero trên tại đây và đây.

 Một số câu nói của Axe:
“Axe hates to kill Oglodi, but it must be done.”_”Axe ghét phải giết người Oglodi, nhưng đây là điều bắt buộc!” (Nói sau khi kill Warlock).

“Blade versus book. Blade wins.”_
”Búa (đao) đấu với Sách (vũ khí, đồng thời cũng là hình ảnh địa diện của Warlock). Búa thắng!” (Nói sau khi kill Warlock).

“What is a tiny razor to a mighty Axe?”_”
Một lưỡi dao cạo bé tí có nghĩa lí gì khi đứng trước một Axe (rìu, búa) hùng mạnh?” (Nói sau khi kill Razor).

“You might have been a fancyman in Heaven, but down here you are nothing next to Axe.”_”
Ngươi có thể là một gã-hoành-tráng trên Thiên Đường, nhưng xuống đây, ngươi chẳng là gì cả đối với Axe!” (Nói với Zeus sau khi kill).

“Don't worry, Treant, Axe does not come to chop you.”_
”Đừng lo lắng, Treant, Axe không đến để 'đốn củi' đâu!” (Nói với Treant khi cả 2 cùng team).
nguồn:dota-2.vn

Mangix the Brewmaster


Mangix the Brewmaster


"Drink and be bleary, for tomorrow we die."
“Hãy uống cho đến khi say khướt, để không phải nuối tiếc nếu ngày mai ngươi chết!” (1)

Sâu trong dãy núi Wailing (Dãy núi Than Thở), giữa một thung lũng nằm dưới cái thành phố đổ nát (Ruined City), Hội đồng Oyo (2) cổ xưa vẫn luôn tiến hành các nghi lễ ảo mộng thần thánh của mình qua suốt nhiều thế kỷ. Thông qua việc uống rượu trong các ngày hội long trọng, họ đã có những cuộc trao đổi thân mật và chân thành với các linh hồn. 

Là kết tinh của mối quan hệ giữa người mẹ phàm trần và người cha Linh Thần (Celestial), chàng trai trẻ tuổi với cái tên Mangix được biết đến như người đầu tiên có được thiên phú từ cả hai dòng máu. Ngay từ nhỏ, hắn đã được dạy dỗ bởi những vị học giả vĩ đại nhất trong dòng tu. Thông qua những cơn say không ngừng nghỉ (có thể coi đây là cách tu luyện của dòng tu này), Mangix cuối cùng cũng đạt được tư cách khiêu chiến quyền sở hữu danh hiệu Brewmaster – danh hiệu vinh quang nhất mà dòng tu này luôn tôn kính. 

Để đạt được danh hiệu thần thánh ấy, Mangix đã phải khiêu chiến với Brewmaster đời trước, một trận chiến kéo dài liên tục chín ngày chín đêm. Trong suốt chín ngày, họ vừa không ngừng uống rượu, vừa chiến đấu kịch liệt. Trong suốt chín đêm, họ quay cuồng, nghiêng ngả, lảo đảo, và vẫn không ngừng lao vào nhau chiến đấu, mãi cho đến khi người chiến binh đời trước gục xuống trong cơn say, và một cái tên của Brewmaster mới được xướng lên.

Hiện tại, gã Brewmaster trẻ tuổi đã có thể triệu hồi sức mạnh từ những tổ tiên Oyo của mình, để khiến cây trượng trên tay càng thêm nhanh chóng (3). Khi sử dụng ma thuật, hắn liền biến thân thành các linh hồn tổ tiên của mình. Giống như các Brewmaster khác, giờ đây, Magnix cũng bắt đầu bước lên hành trình của chính mình, hướng về một mục tiêu duy nhất. Hắn đi khắp đại lục, dùng rượu để dẫn bước cho tâm hồn, tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi về sự phân tách của giáo phái từ thời cổ đại – đồng thời cũng là để tìm kiếm phương pháp để kết hợp tinh thần cùng vật chất vị diện một lần nữa.


(1) Dịch thoát ý.
(2) Order of the Oyo: Có thể hiểu đây là một dòng tu, một tôn giáo.

(3) Từ “staff” ở đây có thể hiểu là cây trượng – vũ khí của Mangix, cũng có thể hiểu là những người dân trong giáo phái. Khi đó, câu này có nghĩa là Mangix có khả năng gia tăng sức mạnh cho những người trong giáo (xứng đáng với ngôi vị lãnh tụ tinh thần của giáo phái).

 Một vài câu nói của Mangix:

“Water water everywhere, but I wouldn't drink you” – “Nước, nước ở khắp nơi, nhưng ta sẽ không uống ngươi!” (Nói với Morphling sau khi kill)

“Our ancestors welcome you home, cousin.” – “Tổ tiên của chúng ta chào đón anh về nhà, hỡi người họ hàng của tôi!” (Nói với Storm sau khi kill)

“Your ember may burn out, but your spirit returns to our ancestors.” – “Đống than của anh có thể sẽ ra tro, nhưng linh hồn anh sẽ được trở về với tổ tiên của chúng ta!” (Nói với Ember Spirit sau khi kill)
nguồn:dota-2.vn

Slark the Nightcrawler

Slark the Nightcrawler

“Met you once, cut you twice."“Gặp ngươi một (lần), cắt ngươi hai (lần).” (1)


Rất ít được biết tới bởi các cư dân sống ở vùng khô cạn (dry world ~ chắc là dùng để chỉ những kẻ sống trên bờ), Dark Reef là tên của cái nhà tù nằm chìm nghỉm dưới lòng biển sâu, nơi mà những sinh vật biển tồi tệ nhất bị giam cầm bởi tội lỗi chống lại giống loài mình.

Đó là một tòa nhà giam với các bức tường vây kín bởi những lưỡi dao sắc lẹm, nhốt đầy những gã Slithereen nguy hiểm, những Deep Ones độc ác, giảo hoạt hay những Meranth phản xã hội. Trong cái mê cung âm u ấy, nơi được tuần tra hằng ngày bởi lũ cá chình và được canh gác nghiêm ngặt bởi những con hải quỳ khổng lồ, chỉ có những kẻ độc ác nhất mới có thể sống sót.

Bị tống vào Dark Reef mà không rõ tội danh, Slark đã sống hơn nửa cuộc đời với không chút thân nhân hay lòng tốt, cũng không thể tín nhiệm bất kỳ ai. Hắn đã luôn tồn tại nhờ vào sự kết hợp tuyệt vời giữa khả năng lén lút và sự tàn nhẫn, với những ý tưởng và kế hoạch được giữ riêng cho bản thân. Thế rồi, khi Bộ Tá (12) khét tiếng Dark Reef (Dark Reef Dozen) chuẩn bị cho cuộc vượt ngục bất hạnh của chúng, chúng đã giữ kín kế hoạch của mình một cách hoàn hảo, giết chết bất cứ kẻ nào lần mò ra dấu vết – thế nhưng, không biết bằng cách nào, Slark vẫn cứ phát hiện ra, và “tự đặt” một chỗ cho mình trong cái kế hoạch đó.

Trong quá trình vượt ngục, 10 trong số 12 gã nọ bị tiêu diệt, 2 kẻ còn lại bị bắt lấy, áp tải trở về Dark Reef, chịu hành hình để làm trò tiêu khiển cho các “bạn tù”. Thế nhưng, Slark, kẻ thứ mười ba chưa bao giờ được biết tới, đã lợi dụng lúc hỗn loạn để che dấu, tẩu thoát và không bao giờ bị bắt lại.

Hiện tại, Slark đang náu mình giữa rừng đước (Mangrove) ăn thịt người nơi tận cùng phía nam của Shadeshore. Tính đến giờ, hắn vẫn là kẻ duy nhất thành công trốn thoát khỏi Dark Reef.

(1) Dịch thành “Gặp người một lần, cắt ngươi làm hai” thì có vẻ hay hơn 

 Một số câu nói hay ho của Slark:

“Alone is best but sometimes you need mates. Worse comes to worst, you can always eat em.” – “Cô độc là tốt nhất, nhưng đôi lúc ngươi cũng cần đồng bọn. Khi mọi chuyện trở nên tồi tệ, ngươi lúc nào cũng có thể “thịt” chúng.” (Tức là có đồng bọn để làm…lương thực dự trữ….)

“Sometimes the little fish eats the big fish.” – “
Đôi khi cá nhỏ nuốt cá lớn.” (Nói sau khi giết Tide)

“I know your type, Riki. Common sneak thief.” – 
“Ta biết cái kiểu của ngươi, Riki. Một gã trộm cắp hèn hạ tầm thường.” (Nói sau khi giết Riki)

“Don't listen to the critics, Naga, I love your voice.” – “
Đừng để ý đến những lời chỉ trích, Naga, tôi yêu giọng hát của nàng.” (Nói khi gặp Naga trong cùng team)
nguồn:dota-2.vn

Pugna the Oblivion

Pugna the Oblivion

"Who needs a blade when you have oblivion?"“Ngươi cần đến lưỡi kiếm làm gì, khi đã có ‘lãng quên’?”



Tại vùng đất mà Pugna được sinh ra, tại nơi khởi nguyên của Nether Reaches (U Minh Giới), có một ngôi Lạt Ma Tự (chùa Lạt Ma, Lạt Ma là một danh từ riêng dùng để chỉ các bậc cao tăng theo phật giáo Tây Tạng) chuyên nghiên cứu Nghệ thuật của sự Lãng quên (Arts of Oblivion) – một ngôi chùa có khả năng hấp thụ năng lượng U Minh (nether energy) một cách trực tiếp. Vài năm trước, Đại Lạt Ma (người đứng đầu chùa lạt ma) đã chủ động buông tay viên tịch, lưu lại một ngôi chùa không người lãnh đạo.

Ngay sau khi Đại Lạt Ma qua đời, những người tạm thời quản lý Lạt Ma Tự đã bắt đầu cử hành một nghi lễ bói toán, nhằm xác định xem người thầy của họ sẽ chuyển thế đầu thai thành ai trong kiếp tiếp theo. Cuối cùng, mọi dấu hiệu đều hướng đến khu vực lân cận ngôi chùa.

Đã từ lâu, vẫn luôn có những thông trang nhỏ nằm dưới bóng ngôi chùa, với tiếng nói cười luôn ngập tràn khắp chốn. Pugna, một đứa bé mới 13 tháng tuổi, đã trở thành một trong những ứng cử viên, và vào ngày tuyển chọn, hắn cùng với hai đứa trẻ đầy hứa hẹn khác, đã được lựa chọn.

Những Lạt Ma đã đặt trước mặt 3 đứa trẻ một đống những món đồ trân quý của vị Đại Lạt Ma tiền nhiệm. Một đứa bé trai đã chọn ngay chiếc đũa phép làm từ chất Pocfia của Đại Lạt Ma…rồi đem nó cắm vào lỗ mũi của mình. Một cô bé khác, nghịch ngợm hơn, đã lấy ra một chiếc bùa hộ mệnh, rồi sau đó lập tức nuốt xuống. Pugna lạnh lùng nhìn chăm chú vào hai đứa trẻ đó, nở ra một nụ cười vui vẻ, rồi thiêu cả 2 thành tro bụi bằng một ngọn lửa màu xanh biếc (lục bảo). Sau đó, hắn lấy ra từ trong đống tro tàn chiếc đũa phép cùng cái bùa hộ mệnh và nói: “Của ta!”.

Những người quản lý tạm thời của ngôi chùa lập tức công kênh hắn lên vai trong vui sướng, sau đó giúp hắn mặc vào chiếc áo cà sa của Đại Lạt Ma, rồi vội vàng đặt hắn lên ngôi báu, trước khi tâm trạng của hắn có thể thay đổi. 

Trong vòng 5 năm, ngôi chùa giờ cũng đã trở thành một đống tro tàn khác, khiến cho Pugna vui sướng không thôi. 

 Một số câu nói của Pugna:

“Ah Viper , my erstwhile pet.” – “Ah Viper, vật nuôi bé bỏng khi xưa của ta!” (Nói với Viper sau khi kill)

“The real Enigma is why you thought you could go up against me.” – “Điều Bí Ẩn thật sự là, tại sao ngươi lại nghĩ rằng ngươi có thể chống lại ta cơ chứ.” (Nói với Enigma sau khi kill, cái tên Enigma nghĩa là Bí Ẩn)

“To master oblivion, you must become oblivion. Look into my eyes and you will see what I'm talking about.” – “Để làm chủ được sự Lãng Quên, ngươi cần phải trở thành Lãng Quên. Nhìn vào mắt ta, và ngươi sẽ hiểu ta đang nói về cái gì!”
nguồn:dota-2.vn

Atropos the Bane Elemental

Atropos the Bane Elemental


"I dreamt a field of war… and woke to find myself upon it."“Ta mơ thấy mình tham gia vào một trận chiến…và khi tỉnh dậy, ta thấy mình đang đứng giữa chiến trường đó!”

Khi mà các vị Thần gặp phải ác mộng, thì đó là do Bane Elemental mang tới (1). Được biết tới với cái tên Atropos (2) the Bane Elemental, hắn được sinh ra từ nỗi sợ hãi giữa đêm của Nữ thần Nyctasha. Thứ sức mạnh của nỗi sợ hãi ấy quá mạnh mẽ để có thể được xoa dịu bởi giấc ngủ. Thế rồi, Atropos bắt đầu trỗi dậy từ những cơn mộng mị của nữ thần, được nuôi dưỡng bởi sự bất tử của nàng, đồng thời cũng tự tạo ra cái hình dáng hư ảo của mình thông qua dòng máu màu mực (tím) ăn cắp được từ chính Nữ thần.

Bản thân sự tồn tại của hắn, chính là nỗi sợ. Nghe được âm thanh của hắn, người phàm sẽ cảm giác thấy những bí mật đen tối nhất của mình đang rì rầm bên tai. Hắn đồng thời cũng có thể khơi gợi lên nỗi sợ hãi tiềm ẩn trong trái tim của các Anh Hùng (Hero). Giữ mình không ngủ cũng không thể bảo vệ bản thân khỏi Atropos, bởi dòng máu đen tôi của Bane, thứ sẽ nhỏ giọt không ngừng, chính là cái bẫy đẩy kẻ thù của hắn vào cơn ác mộng đáng sợ nhất.

Chỉ cần Bane Elemental xuất hiện, mọi Anh Hùng đều sẽ biết sợ bóng tối.


(1) Bane Elemental ~ Nguyên tố Thống Khổ ~ Nguồn gốc của tai ương: Atropos là hiện thân của 1 Elemental, sinh ra từ nỗi sợ của một nữ thần; Barathum thì đến từ Elemental Realm. Celestial thì tồn tại ngay tại thế giới vật chất, thường là các nguyên tố tự nhiên như sấm, gió, lửa, đất…Nhìn thấy sự khác nhau, nhưng vì vẫn thiếu dữ liệu, nên chưa kết luận vội vàng.

(2) Atropos: Tên của 1 trong 3 nữ thần quyết định vận mệnh của cả người và thần trong Thần thoại Hy Lạp. Atropos là người cắt đứt sợi tơ định mệnh, quyết định sống chết của thần và người.

 Một vài câu nói của Atropos:

I've forgotten more nightmares than you'll ever inspire.” – “Số cơn ác mộng mà ta đã quên, còn nhiều hơn những gì mà ngươi mang tới” (Nói với Night Stalker sau khi kill, vì NS cũng là một Hero có tiểu sử “mang đến sự sợ hãi cho người khác”)

“Dreamcoil, feh! Leave that to the experts.” – 
Dreamcoil, khặc khặc! Hãy để việc đó cho các chuyên gia!” (Nói với Puck sau khi kill, Dream Coil là ultimate của Puck)

Shame, I thought she might have had some new tricks to teach me.” – 
“Thật đáng xấu hổ, ta còn nghĩ rằng nàng ta có thể dạy mình một vài thủ thuật mới!” (Nói với Queen sau khi kill, vì Queen cũng được coi là một chuyên gia khiên người khác đau khổ) 

“Raw fish before bedtime will give you bad dreams.” – 
“Nhai cá sống trước khi đi ngủ sẽ khiến ngươi gặp phải những giấc mộng tồi tệ!” (Nói với Tide sau khi kill)
nguồn:dota-2.vn

MERCURIAL THE SPECTRE


MERCURIAL THE SPECTRE


“I have come here a stranger, lost.”“Ta đến nơi này như một kẻ xa lạ, lạc lõng.”


Spectre, hay còn được biết đến với cái tên Mercurial, là một dạng tập hợp hữu hình của những năng lượng mãnh liệt đầy tính bạo lực. Tương tự như những dạng năng lượng cao cấp khác, luôn thích “bắt nạt” những cấp độ thấp hơn, nàng gần như không thể cưỡng lại được sự ham thích đối với những xung đột và phân tranh diễn ra nơi thế giới vật chất. Tuy nhiên, trong trạng thái bình thường, nàng đã hoàn toàn vượt qua những khái niệm thông thường về vật chất. Bởi vậy, mỗi khi nàng sử dụng hình thái thực thể để xuất hiện tại thế giới thực tại, nàng lại không thể không tổn thất một bộ phận năng lượng của bản thân – dù rằng chính nàng cũng không muốn như thế.
Trong các cuộc đụng độ và chiến đấu, ý thức của nàng dần dần phân tán rồi lại tái tụ, và nàng cũng bắt đầu có nhận thức. Nàng nhận thức được rằng, nàng là Mercurial the Spectre – và tất cả những âm ảnh (Haunt) khác đều chỉ là hình bóng của chính nàng. Nhằm đấu tranh cho sự tồn tại của mình, tâm trí thực của nàng bắt đầu xác thực lại chính nó và dần trở nên thành thục. Cho đến khi nàng giành lấy thắng lợi cuối cùng hoặc thất bại hoàn toàn trong cuộc chiến, nàng sẽ lại vượt qua được sự trói buộc của vật chất và trở lại với trạng thái tồn tại siêu việt vĩnh cửu của mình.

*Giới tính của Spectre vẫn là nữ, dù rằng bị tạo hình xấu đi rất nhiều so với Dota (quá tiếc, đây là một trong những Hero nữ ưa thích của mình).

*Spectre dường như không có nhiều mối quan hệ với các Hero khác, có vẻ như cũng hợp với xuất xứ của nàng, một dạng tồn tại cao hơn so với thế giới vật chất.

* Spectre đến từ một thế giới khác, theo tiểu sử, nàng đến thế giới Dota vì bị cuốn hút bởi những xung đột nơi đây (xung đột giữa Radiant và Dire), ở đây nàng rất cô độc và không một ai hiểu nàng, đúng nghĩa của một kẻ bị lạc lõng ở thế giới này, thể hiện ở những lời thoại như:
- What did I do wrong? - Nói khi bị giết : Ta đã làm gì sai?
- No one understands. - Nói khi bị giết : Chẳng ai hiểu cả.

- I merely wanted your help. - Nói khi giết hero khác: Ta chỉ muốn ngươi giúp thôi mà.

- Can no one understand me? - Nói khi giết hero khác: Không ai chịu hiểu ta sao?
- What is this place? - Nói khi được pick: Đây là đâu vậy?- This is all wrong. - Nói khi hồi sinh: Tất cả các ngươi nhầm rồi.

Nàng luôn có một mong muốn cháy bỏng đó là được trở về nhà, và điều kiện để nàng được trở về đó là đặt dấu chấm kết thúc cho cuộc chiến thần thoại và trường kì giữa 2 phe Radiant và Dire, chúng ta có thể thấy điều đó qua rất nhiều lời thoại của Spectre như:- I wish to go home! - Nói khi bị giết : Ta đã ước được trở về nhà!- At last I can go home! - Nói khi chiến thắng : Cuối cùng ta cũng có thể trở về nhà!
nguồn:dota-2.vn

Raijin Thunderkeg the Storm Spirit

Raijin Thunderkeg the Storm Spirit

"Feel the wind in your hair!"“Hãy cảm nhận ngọn gió đang thổi qua tóc ngươi!”

Storm Spirit, tựa như cái tên của mình, chính là một loại lực lượng của tự nhiên, là sức mạnh hoang dã của gió và thời tiết ngưng tụ thành hình người. Ông luôn vui vẻ, phóng đãng, không gì kiếm chế được. Tựa như một danh hài (ông chú) được ưa thích, ông mang đến năng lượng của niềm vui cho bất cứ nơi nào mà ông đi qua. Thế nhưng, trên thực tế, không phải lúc nào ông cũng được vui sướng như vậy. Bản thân sự ra đời của Storm Spirit chính là một bi kịch.

Nhiều thế hệ trước, tại bình nguyên phía trên Wailing Moutains (dãy núi Wailing ~ dãy núi than thở) đã có vô số người phải chết vì hạn hán và nạn đói. Trước cảnh lầm than ấy, một gã Nguyên Tố Sư (Elementalist ~ kẻ điều khiển nguyên tố) tầm thường, với cái tên Thunderkeg, đã sử dụng câu thần chú bị cấm kỵ để triệu hồi ra linh hồn của gió lốc, và cầu khẩn người hãy làm mưa xuống.

Giận dữ trước yêu cầu láo xược ấy của gã phàm nhân, Linh Thần của Gió Lốc (Storm Celestial), còn được biết tới với cái tên Raijin, đã định tẩy rửa vùng đất này, biến nó thành hoang mạc bằng gió lốc và lũ lụt. Thunderkeg hoàn toàn không phải đối thủ của Linh Thần (Celestial), ít nhất là cho đến khi hắn sử dụng một câu thần chú tự sát, khiến vận mệnh của hắn và Linh Thần hòa làm một thể. Hắn đã dùng chính thân thể của mình để làm nhà giam và bắt giữ được Raijin.

Bị trói buộc lại cùng một chỗ, tính khí hài hước vô biên giới của Thunderkeg cùng năng lượng điên cuồng của Raijin đã kết hợp cùng nhau, tạo ra một Raijin Thunderkeg luôn vui tươi, một Linh Thần tồn tại giữa thế gian trong trạng thái vật chất.

 Dịch thoát ý.

 StormPanda (Mangix) đều thuộc dạng Half-Celestial.

 Vẫn chưa làm rõ được khái niệm “Celestial” trong Dota 2. Nhiều khả năng Celestial chính là nhân cách của một loại nguyên tố, có khả năng điều khiển sức mạnh của nguyên tố đó. các Linh Thần thường không có hình dáng cụ thể để tồn tại trong thế giới bình thường. Chỉ khi kết hợp với một người phàm, họ mới có thể xuất hiện trong các hình hài mà chúng ta có thể thấy. Điển hình như Storm và Mangix. 

 Một số câu nói của Storm:

“There's no safe harbor from this storm, Kunkka!” – “Không có một bến cảng nào an toàn trước cơn bão này, Kunkka!” (Nói sau khi kill Kunkka)

“Call off your little storms, Razor. They're an embarrassment.” – “Dập tắt cái cơn bão bé nhỏ của ngươi đi, Razor. Nó thật đáng xấu hổ!” (Nói sau khi kill Razor)

“Ha ha ha ha. Your maidenly charms were wasted on me.” – “Hahahaha. Sự quyến rũ ngọt ngào của nàng là vô nghĩa khi đứng trước ta!” (Nói sau khi kill Rylai)

Nguồn:dota-2.vn

Viper the Netherdrake

Viper the Netherdrake


“My fangs drip."“Răng nanh của ta ngập tràn nọc độc.” (1)

Viper đã từng là Linh Thú(2) của một gã thuật sư hung tàn bạo ngược (3), kẻ đã đánh bẫy và hy vọng thuần hóa được nó. Về phía mình, khi bị đánh bẫy, Viper tựa hồ rất vui vẻ, bởi vì nó vẫn luôn tò mò về cái thế giới bên ngoài lãnh địa Nether Reaches (4) vốn phong bế và vĩnh viễn không thay đổi, nơi mà bộ tộc của nó đã sinh sống hàng triệu năm.

Ban đầu, Viper đã thử phục tùng mệnh lệnh của gã thuật sư, nhằm học lóm thứ ma thuật hắc ám cao siêu của hắn. Thế nhưng, nó rất nhanh phát hiện ra rằng, không có thứ ma pháp nào có thể nguy hiểm bằng thứ nọc độc mà nó sở hữu ngay từ lúc mới sinh. Bởi vậy, Viper đã dùng nọc độc để ăn mòn song sắt, thoát ra khỏi cái lồng mà gã thuật sư vẫn dùng để nhốt mình. Thế rồi, trong con mắt ngỡ ngàng của gã thuật sư, nó phun nọc độc của mình lên người hắn, rồi bay vút lên không trung, như thể tuyên bố với tất cả rằng chủ nhân mới của thế giới này đã tới.


(1) Dịch thoát ý. Drip nghĩa là sũng nước, nhỏ giọt.

(2) Familiar: Trong Harry Potter dịch là Gia Tinh thì phải. Trong các tiểu thuyết huyền ảo phương Tây, các pháp sư thường có những con linh thú của mình, được triệu hồi lên từ địa ngục hay đâu đó. Các Familiar có khả năng gia tăng sức mạnh và chiến đấu cùng chủ nhân.

(3) Gã thuật sư này có thể chính là Pugna của chúng ta. Trong nguồn voice của Pugna đã nhắc đến Viper như 1 con ‘pet’ của mình, nếu Pugna không “chém gió” thì chuẩn cmnr, vì Viper cũng chỉ bị bắt 1 lần duy nhất mà thôi. Suy đoán: Pugna bị Viper nhả độc vào người, thành ra từ có da có thịt trở thành bộ xương khô 

(4) Nether Reaches: Từ này có thể tạm dịch là "vùng đất phía dưới" hoặc U Minh Giới.

 Một số câu nói của Viper (Viper không đả động gì đến Pugna trong nguồn voice của mình):

“Your venom was no match for my poison.” – “Nọc độc của ngươi chẳng thể nào so sánh được với chất độc của ta!” (Nói với Venom sau khi kill)

Sorry bat, there was something on your back.” – “Xin lỗi ‘dơi con’, có một thứ gì đó đằng sau lưng ngươi!” (Nói với ‘con dơi’ của Batrider sau khi kill  )

I am no sorcerer's familiar. Rather, I'll take a sorcerer as my pet.” – “Ta không phải vật nuôi của một gã phù thủy nào cả. Ngược lại, ta sẽ bắt một gã phù thủy làm vật nuôi cho mình!” (Không nói với riêng ai).
nguồn:dota-2.vn

RYLAI THE CRYSTAL MAIDEN

RYLAI THE CRYSTAL MAIDEN

“Someday I'll return to the Blueheart Glacier and sleep for a thousand years.”“Một ngày nào đó, ta sẽ quay về Blueheart Clacier và chìm vào một giấc ngủ ngàn năm (1)”


* Tiểu sử:
Rylai the Crytal Maiden được sinh ra tại một miền đất với khí hậu ôn hòa. Nàng lớn lên cùng Lina, người chị có tính khí “hỏa bạo” (nhiệt tình + nóng nảy) của mình.


Từ rất sớm, Rylai đã phát hiện ra rằng, sự hấp dẫn một cách tự nhiên của nàng đối với các Nguyên tố Băng sẽ khiến cho người xung quanh gặp phải không ít phiền toái. Chỉ cần nàng ngồi nghỉ ngơi ở bên cạnh, giếng nước hoặc khe suối sẽ bị đóng băng trong chớp mắt, hoa màu sắp thu hoạch sẽ bị thương bởi sương giá, đến cả vườn trái cây cũng sẽ bị đông thành đá, rồi nhanh chóng gãy đổ và lụi tàn.

Khi cha mẹ của họ bất đắc dĩ phải gửi Lina đến phía Nam, Rylai cũng nhanh chóng bị "đày" (mình dịch chính xác từ "đày" - banished) tới phương Bắc rét lạnh và sương giá, nơi nàng được thu dưỡng bởi một vị Băng Thuật Pháp sư (Ice Wizard) sống tại đỉnh của ngọn núi Blueheart Glacier. Trải qua một thời gian dài học tập, sau khi cảm thấy rằng Rylai đã có thể tự mình tu luyện Frozen Arts (Ma pháp đóng băng), vị Pháp sư nọ đã tự chìm xuống giữa lòng sông băng và bắt đầu giấc ngủ ngàn năm của mình.

Từ đó về sau, Frozen Arts của Rylai càng ngày càng tiến bộ. Và hiện tại, ma pháp của nàng đã không ai có thể địch nổi.

(1) Giấc ngủ ngàn năm giữa lòng sông băng: có thể đây là một cách tu luyện để vươn lên tầm cao mới của các Băng Thuật Pháp Sư, như thầy Rylai.

*Từ đó có thể thấy được mối quan hệ của Lina và Rylai tuy xung khắc nhưng dường như không thể thiếu lẫn nhau. Tại sao khi cha mẹ đã gửi Lina đi rồi, lại vẫn phải gửi Rylai đi tiếp? Có lẽ là vì nếu không có Lina khắc chế, Rylai sẽ khiến cả vùng đất họ sống bị đóng băng chăng? Và cũng vì lẽ đó nên nàng mới bị gửi đến vùng cực Nam lạnh lẽo? Dẫu sao thì mình thấy cặp cha mẹ đó cũng hơi đáng trách, khi mà "đày" con cái đi như thế.

* Quan hệ với các heroes khác:

1/ Thù địch:

Có vẻ như Crystal Maiden vì xuất thân từ băng giá nên tính tình cũng có phần ôn hòa hơn người chị thanh niên máu nóng của mình. Các câu nói mỉa mai khi giết đối thủ của Rylai cũng không được hài hước và mạnh mẽ như Lina. Tuy nhiên vẫn có một số điểm đặc sắc. Ngoại trừ một số câu “chửi nhau” theo đúng nghĩa của từ này với Lina, và một số câu khác có phần nhẹ nhàng hơn ví dụ như:
- Lina, you hellfire hellbitch! : Lina, đồ quỷ cái của địa ngục! 
- That's enough, Lina, you're melting my stuff. - Đủ rồi Lina, chị đang làm tan chảy hết đồ đạc của em rồi.

Đối với các heroes khác mang tính băng, cô bé mùa đông này cũng chỉ có một số lời châm biếm nhẹ nhàng, ví dụ như:
- You think you can snow me? - Nói khi giết Lich : Ngươi nghĩ ngươi có thể đóng băng ta?
- Your wind was messing up my snowflakes - Nói khi giết Storm: Gió của ngươi làm hỏng hết các bông tuyết của ta rồi.
- That was a test, Tinker. And you failed. - Nói khi giết Tinker, hero được xem là một nhà khoa học và phát minh trong DotA 2 : Đó là một bài thí nghiệm, Tinker. Và ngươi thất bại rồi.
- No more hoofin' it in my snow. - Nói khi giết Enchantress : Không thể giẫm lên tuyết của ta nữa nhé (Enchantress có 4 chân... )
- Hey, Queenie, you might wanna put a little ice on that. - Hey, Queen bé nhỏ, ngươi có thể sẽ muốn đặt lên đó một chút băng đấy.
- I almost liked half of you. - Nói khi giết Jarkiro : Ta đã thích một nửa của ngươi
- Old, cold and busted. - Nói khi giết AA : Già, lạnh giá, và bị vỡ tan tành.
- I miss our snowball fights, Tuskarr. - Nói khi giết Tuskarr : Ta nhớ những lần chơi bóng tuyết của chúng ta, Tuskarr.



2/ Bạn bè:
- See if you can keep up, sis! - Nói với Lina: Để xem chị có thể theo kịp được em không!
I'll freeze them and you shatter, Phoenix - Nói với Phoenix : Ta sẽ đóng băng chúng và ngươi đập tan, Phoenix.
This'll be like old times, Tuskarr. - Nói với Tuskarr : Lại như quá khứ của chúng ta nhỉ, Tuskarr.
That's a lovely shade of blue, Sven. - Nói với Sven : Màu xanh đó thật đáng yêu, Sven (Sven là một hero màu xanh, nhưng có lẽ Rylai hình như không để ý lúc Ulti Sven thành màu đỏ...)
Juggernaut, let them feel the cool of your blade! - Nói với Jug : Juggernaut, hãy để chúng cảm nhận được độ “cool” trên lưỡi kiếm của anh (Jugg được xem là 1 hero cầm kiếm khá “cool”, tạm dịch là ngầu, còn Rylai là một heroes tính Băng nên việc “cool”, ở đây dịch là mát, là điều dễ hiểu rồi. Đây là một hình thức chơi chữ “cool”.)

Từ những điều trên chúng ta có thể thấy một điều lạ là trong khi Lina ghét tất cả các heroes tính băng và lửa (như đã nói, Lina là một điển hình của thanh niên máu nóng, flame bất kể ai) thì Rylai lại chỉ flame với các heroes tính băng (!?) và không hề tỏ thái độ thù địch đối với các heroes tính lửa. Như vậy chúng ta có thể kết luận Rylai là một thanh niên gato điển hình chăng?
nguồn:dota-2.vn

ANTI MAGE


ANTI MAGE

“They who live by the wand shall die by my blade.”
“Những kẻ sống bằng cây quyền trượng (ý chỉ Pháp sư) sẽ chết dưới lưỡi kiếm của ta”



* Tiểu sử:

Khi mà vương quốc dưới núi bị từng đợt sóng xâm lược điên cuồng càn quét, những vị thầy tu của đạo Turstarkuri vẫn đang đứng yên lặng trên núi, nhìn chăm chú vào thung lũng gập ghềnh phía dưới. Sống khổ hạnh mà thực tế, bọn họ ẩn mình tại ngôi chùa trên ngọn núi cao xa xôi, đắm mình vào dòng suy tưởng, rời xa những huyên náo của đời thường, cũng rời xa khỏi sự quấy nhiễu của bất kỳ thứ ma pháp nguyên tố hay một vị thần linh nào.

Thế nhưng, quân đoàn của Dead God đã tới, mang theo nó là sự phá hủy của mọi Tín ngưỡng, cũng ép buộc những người dân bản xứ phải thờ phụng chủ nghĩa hư vô của Unliving Lord (cũng chính là Dead God, chỉ là 2 cách gọi khác nhau). Đến từ vùng đất của một ngàn năm chiến loạn cùng những cơn gió tanh mưa máu, quân đoàn của Dead God xé tan linh hồn cũng như thi hài của những kẻ chiến bại, dùng đó để khủng bố và phá hủy Tín Ngưỡng của chùa Turstarkuri.
Đối mặt với những đợt tấn công khủng bố như thế, ngôi chùa chỉ kiên trì được trong chưa đầy 15 ngày. Thậm chí, có một số ít thầy tu khi vừa mới tỉnh lại từ sự suy tưởng, còn cho rằng những kẻ xâm lược chỉ là ảo giác mà lũ ác ma biến hóa ra để quấy nhiễu dòng suy tưởng của họ. Vì thế, họ chết ở trên chính chiếc đệm lụa của mình.
Chỉ có một người trẻ tuổi còn sống sót sau đợt thảm sát. Hắn đến với Turstarkuri để tìm kiếm trí tuệ, nhưng chưa được ngôi chùa chấp thuận để trở thành một tăng lữ. Hắn hoảng sợ nhìn những vị tăng lữ mà mình từng phục vụ bị giết, sau đó lại bị phục sinh để trở thành tư tế của Dead God.
Chạy trốn đến một nơi tương đối an toàn, mang theo những quyển trục cất chứa giáo lí quý giá của đạo Turstarkuri, hắn thề, sẽ không chỉ tiêu diệt tất cả những kẻ sử dụng ma thuật của Dead God, mà còn phải đặt một dấu chấm hết cho 2 từ “ma thuật” một cách hoàn toàn.

*Không thấy Valve đề cập đến tên của Anti-Mage, không biết có còn là Magina như Dota nữa không.

*Có vẻ như Anti-Mage là người Anh hoặc một số nước lân cận đó thuộc Vương quốc Anh bởi anh chàng này nói tiếng Anh theo kiểu tiếng Anh thời trung đại, ví dụ như anh ta nói “thy” thay cho your, “thou” thay cho those, v.v...

* Quan hệ với các heroes khác:
1. Anh em với Terror Blade

*Có vẻ như Valve vẫn để Anti-MageTerror Blade là anh em . Bằng chứng là trong nguồn các âm thanh của Anti-Mage có mấy câu sau:
“The bonds of brotherhood, severed.” – “Sự ràng buộc của tình anh em, giờ đã chấm dứt.”_Nói sau khi giết Terror Blade .
“Mother always liked you best.” – “Mẹ luôn yêu anh hơn cả...”_Nói trước khi bị Terror Blade giết (trong game).

2. Kẻ thù:
Mặc dù tên của anh là Antimage, và trong DotA 2 đến thời điểm này đã có đến tận 36 heroes hệ Intel, nhưng anh chàng này chỉ có lời thoại đặc biệt sau khi giết một số ít heroes, rất tiếc ít nhưng cũng khá là nhạt chứ không đặc sắc cho lắm. Có vẻ như Antimage ngoài mối quan hệ đặc biệt với Terror Blade ra thì không có quan hệ đặc biệt với ai khác cả:

- Magic is an abomination.- Nói sau khi giết Necrolyte : Ma thuật là một thứ đáng kinh tởm.
- Magic fails thee. - Nói sau khi giết Warlock : Ma thuật của ngươi thất bại rồi.
- Sorcery is an abomination! - Nói sau khi giết Bane: Ma pháp là một thứ đáng kinh tởm.

- Sorcery fails thee. - Nói sau khi giết Lich : Ma pháp của ngươi thất bại rồi.

- Thy sorcery fails thee. - Nói sau khi giết Zeus : Ma pháp của ngươi thất bại rồi.


3. Đồng minh:
Có một sự thật đáng buồn là Antimage của chúng ta chẳng có một đồng minh cụ thể nào cả.


4. Một số câu nói đặc sắc :
- Blink Dagger? Really? - Nói sau khi mua blink : Blink dagger, thật à? 
Mời các bạn nghe để hiểu được tâm trạng của AM sau khi mua Blink. Nghe giọng thực sự rất buồn cười, nửa ngỡ ngàng nửa thắc mắc :http://www.dota2wiki.com/images/9/9f/Anti_blink_01.mp3
- Nếu bạn muốn troll AM, hãy mua cho anh ấy Aghanim Scepter. Lý do ư? Bạn còn nhớ câu nói trở thành thương hiệu của AM chứ? “Những kẻ sống bằng quyền trượng sẽ chết dưới đao của ta”, vì thế hãy mua cho anh ta một cây quyền trượng. Anh ta lập tức sẽ nói: “Scepter, really.” - “Quyền trượng, nghiêm túc đấy ư?”, hay “I'll pray this scepter not sully my soul.” - Ta cầu nguyện rằng cây quyền trượng này không làm vấy bẩn linh hồn ta.

- An ageless power is mine. - Khi cầm Aegis: Sức mạnh trường tồn là của ta.

- It is not magic brings me back, but purity of will! - Nói sau khi buy back : Không phải ma thuật đã mang ta trở lại, mà đó là sự thuần khiết của ý chí.

nguồn:dota-2.vn


TIDEHUNTER

TIDEHUNTER

“Who needs a big brain when you've got teeth like mine?”“Ai cần một bộ não “lớn” nếu như đã có những cái răng giống như ta?”


Tidehunter, còn được biết tới với cái tên Leviathan, từng là nhà vô địch của hòn đảo bị nhấn chìm (Sunken Isle). Tuy nhiên, ngay cả với chính những đồng bào của mình, Tidehunter vẫn là một bí ẩn khó lường.

Phần lớn chúng ta đều biết tầm quan trọng của con đường hằng hải Drylander, các đế chế quật khởi hay suy vong đều được quyết định bởi ai là người nắm trong tay vùng biển này. So sánh với nó, con đường hằng hải nằm dưới đáy biển cùng câu chuyện về bộ tộc Meranthic Diaspora lại rất ít có người biết tới. Bộ tộc đó là gì? và nó đã phải trải qua vô số những cuộc trạm trán lớn nhỏ để mở rộng lãnh thổ như thế nào? Đó là một câu hỏi khó cho tất cả các cư dân trên đại luc.

Tất cả những gì chúng ta được biết, thông qua những hiệp nghị yếu ớt giữa nhân loại và các Meranthic, là những mường tượng mơ hồ về một phần nào đó quy mô của đế chế ngầm này. Phải nói rằng, nền chính trị của nó có vẻ như vô cùng phức tạp và đầy những tranh chấp rắc rối. Và cũng chính vì chán ghét những xung đột vô vị của thể chế ấy, Leviathan đã một mình bỏ đi, rồi nguyện trung thành với một vị Ma thần duy nhất của vực sâu, Maelrawn the Tentacular.

Hiện tại, Leviathan vẫn luôn tuần tra một mình giữa vùng nước cạn, tìm kiếm kẻ nào vô tình cản đường hắn đi, cũng như đối thủ ‘không đội trời chung’ – Kunkka the Admiral, kẻ mà hắn luôn căm thù một cách đặc biệt. Tuy nhiên, lí do vì sao mà cả hai trở thành địch nhân, lại đã bị vùi dưới lòng biển sâu từ lâu cùng với cuộc hải chiến kịch liệt năm nào.

*Có vẻ như Tidehunter căm thù Kunkka vô cùng, bởi vì hắn sẽ xổ ra một loạt những câu có liên quan tới Kunkka (theo kiểu nói móc, chửi bới) bất kể là hắn vừa giết ai (trong game).

Puck, you taste as bad as Kunkka's boot.” – Puck, vị của mày cũng tệ như là cái giày của Kunkka vậy.”
“Take a bath,Axe. You smell worse than Kunkka!” – “Axe, đi tắm đi, mày còn hôi hơn cả Kunkka nữa”
Next time, Weaver, let Kunkka give you lessons in scuttling.” – “Lần nới, Weaver, hãy nhờ Kunkka dạy cho mày biết cách để mà trốn chui trốn lủi.”
nguồn:dota-2.vn